Bình thường trong cơ thể, máu lưu thông trong lòng mạch liên tục ở trạng thái lỏng, không bị đông tụ hay hình thành cục máu đông nhờ sự cân bằng giữa hai yếu tố đông máu và ức chế đông máu. Tuy nhiên, khi yếu tố ức chế đông máu có vấn đề, người bệnh có thể bị rối loạn đông máu dẫn đến nhiều biến chứng sức khỏe nguy hiểm. Ý nghĩa xét nghiệm TQ TCK là để đánh giá tình trạng rối loạn đông máu này.
Xét nghiệm TCK Là Gì?
Xét nghiệm TCK hay còn gọi là xét nghiệm APTT kiểm tra thời gian thromboplastin một phần hoạt hóa đang rất phổ biến trên thế giới cũng như tại Việt Nam với mục đích đánh giá đường đông máu nội sinh. Xét nghiệm này có ưu điểm là độ nhạy cao, độ chính xác cao và có thể thực hiện tại nhiều bệnh viện tuyến tỉnh hay khu vực.
Kết quả xét nghiệm TCK có thể thể hiện ở dạng giây (bình thường từ 25 – 33 giây) hoặc theo tỉ lệ chỉ số APTT bệnh/APTT chứng.
Ngoài xét nghiệm TCK, một số xét nghiệm khác để đánh giá đường đông máu nội sinh gồm: định lượng các yếu tố đông máu, xét nghiệm thời gian Howell,…
Xét nghiệm TQ Là Gì?
Xét nghiệm TQ (thời gian Quick) hay còn gọi là xét nghiệm PT (thời gian prothrombin) hiện đang được ứng dụng rộng rãi tại nhiều bệnh viện và cơ sở y tế. Kết quả xét nghiệm TQ giúp bác sĩ đánh giá đường đông máu ngoại sinh trong chẩn đoán tình trạng rối loạn đông máu.
Xét nghiệm TQ kiểm tra thời gian prothrombin
Kết quả của xét nghiệm TQ thường thể hiện ở dạng thời gian tính bằng giây. Thời gian QT bình thường khoảng 11 – 13 giây, nếu kết quả xét nghiệm kéo dài hơn 3 giây nghĩa là đường đông máu ngoại sinh của bệnh nhân đang gặp vấn đề.
Ngoài ra, kết quả TQ cũng có thể thể hiện ở dạng % hoặc INR khi bệnh nhân điều trị kháng Vitamin K.
Xét nghiệm APTT thromboplastin là gì?
APTT (activated partial thromboplastin time) còn được gọi là xét nghiệm thời gian thromboplastin một phần hoạt hóa có tác dụng khảo sát thời gian hồi phục calci của huyết tương citrat sau khi ủ với lượng vừa kaolin (hoạt hóa yếu tố tiếp xúc) và cephalin (thay thế yếu tố 3 tiểu cầu) giúp đánh giá chính xác các yếu tố của con đường đông máu nội sinh.
Thromboplastin (yếu tố III) được mô tổn thương phóng thích sẽ phản ứng với prothrombin cùng với calci (IV) tạo ra thrombin, làm fibrinogen chuyển thành fibrin (I) sẽ tham gia vào quá trình đông máu.
Khi nào cần thực hiện xét nghiệm APTT?
Là một xét nghiệm đánh giá khả năng đông cầm máu nên xét nghiệm APTT một phần sẽ cần được thực hiện trong các trường hợp sau:
- Bệnh nhân cần làm phẫu thuật hoặc cần hỗ trợ cầm máu khi xét nghiệm APTT sẽ giúp cho biết chính xác khả năng cầm máu của bệnh nhân có gì bất thường không để đưa ra biện pháp khắc phục
- Chẩn đoán rối loạn đông máu và mức độ rối loạn trong bệnh lý này
- Thực hiện trước mổ để chuẩn bị thuốc hỗ trợ bệnh nhân nếu cần.
Kết quả của xét nghiệm và ý nghĩa
APTT của huyết tương bình thường thay đổi từ 25-35 giây tùy vào loại cephalin-kaolin và kỹ thuật mà phòng xét nghiệm sử dụng.
Kết quả của xét nghiệm biểu thị bằng tỷ lệ bệnh/chứng:
- rAPTT = APTT bệnh/APTT chứng
- rAPTT bình thường nằm trong khoảng 0,85-1,2.
Nếu APTT kéo dài nghĩa là mẫu bệnh kéo dài hơn mẫu chứng trên 8 giây hoặc rAPTT >1,2 thì bệnh nhân có tình trạng rối loạn đông máu nội sinh (giảm đông) do:
- Thiếu hụt yếu tố có thể bẩm sinh (hemophilia,…)
- Do yếu tố đông máu đã bị tiêu thụ nằm trong hội chứng đông máu rải rác trong lòng mạch, tiêu sợi huyết
- Do suy gan nặng không tổng hợp được yếu tố
- Do trong máu có chất ức chế đông máu nội sinh
- Bệnh nhân điều trị bằng heparin tiêu chuẩn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến sai số của xét nghiệm
4.1 Do mẫu bệnh phẩm
- Mẫu máu bị đông, sai tỷ lệ chống đông hoặc không đúng chất chống đông, chất chống đông bị hỏng, nhiễm heparin do quá trình lấy máu
- Huyết tương đục hoặc vỡ hồng cầu
- Mẫu máu để quá 4 giờ kể từ lúc lấy máu.
4.2 Do phương tiện và hóa chất, kỹ thuật
- Do lượng CaCl-2M/40 và cephalin-kaolin không đảm bảo, quá thời gian bảo quản
- Mẫu huyết tương chứng không lấy tập hợp huyết tương hoặc lấy từ ít hơn 5 người
- Ống nghiệm sử dụng không sạch
- Pipet hỏng, không đảm bảo về thể tích
- Máy phân tích đông máu không chuẩn xác
- Người thực hiện không làm đúng quy trình, đọc và tính sai kết quả.
Tìm hiểu về rối loạn đông máu và xét nghiệm kiểm tra
Ở trạng thái bình thường, nhờ vào sự cân bằng giữa hai yếu tố đông máu và ức chế đông máu mà máu lưu thông trong cơ thể luôn ở trạng thái lỏng. Khi xảy ra tổn thương mạch máu, hệ thống đông cầm máu sẽ hoạt động để hình thành cục máu đông khu trú che lấp chỗ tổn thương và làm ngưng chảy máu.
Xét nghiệm TQ TCK là những xét nghiệm rối loạn đông máu
Khi đã hoàn thành chức năng cầm máu, các mô và tế bào hình thành ở vị trí tổn thương, cục máu đông khu trú sẽ tan dần trả lại sự lưu thông máu bình thường.
Tuy nhiên, do nguyên nhân nào đó, sự cân bằng giữa yếu tố đông máu và ức chế đông máu bị phá vỡ, khi không có tổn thương những vẫn xảy ra tình trạng giảm đông chảy máu hay đông máu hình thành huyết khối. Các chứng rối loạn đông cầm máu này rất nguy hiểm, gặp trong nhiều bệnh lý và chấn thương có thể gây tử vong cho người bệnh nếu phát hiện chậm trễ.
Có thể chia rối loạn đông cầm máu thành các nhóm chính bao gồm:
-
Rối loạn tăng đông máu gây hình thành huyết khối và tắc mạch.
-
Rối loạn tăng đông máu nhưng có triệu chứng lâm sàng là chảy máu.
-
Rối loạn giảm đông máu nhưng có triệu chứng lâm sàng là huyết khối và tắc mạch.
Trong thăm khám, chẩn đoán và điều trị các rối loạn đông cầm máu, các xét nghiệm yếu tố đông máu và ức chế đông máu có vai trò quan trọng. Có rất nhiều loại xét nghiệm đánh giá quá trình này, được chia thành các nhóm theo giai đoạn đông cầm máu như sau:
-
Giai đoạn 1: Cầm máu ban đầu khi hình thành nút cầm máu tạm thời.
-
Giai đoạn 2: Đông máu huyết tương khi hình thành nút cầm máu vĩnh viễn.
-
Giai đoạn 3: Tiêu cục máu đông.
Để đánh giá mỗi giai đoạn đông cầm máu này đều có nhiều xét nghiệm đánh giá khác nhau, bác sĩ sẽ chỉ định thực hiện xét nghiệm khác nhau dựa trên đánh giá nguy cơ rối loạn liên quan tới triệu chứng hay tiền sử bệnh lý.
Các xét nghiệm đánh giá giai đoạn đông máu huyết tương
Giai đoạn đông máu huyết tương là giai đoạn hình thành sợi fibrin, tạo nút cầm máu vĩnh viễn. Để quá trình hình thành sợi fibrin xảy ra bình thường, cần có sự tham gia đầy đủ của các yếu tố đông máu cũng như các chất ức chế đông máu. Thiếu hụt một hoặc nhiều yếu tố đông máu đều có thể dẫn tới giảm hình thành sợi fibrin, giảm khả năng cầm máu, gây chảy máu; Trong khi đó, nếu thiếu hụt chất ức chế đông máu sẽ dẫn tới tăng khả năng tạo fibrin, gây tăng đông, tắc mạch.
Xét nghiệm đánh giá đường đông máu ngoại sinh
PT (Prothrombin Time: thời gian prothrombin; còn được gọi là TQ: thời gian Quick; Tỷ lệ prothrombin). Xét nghiệm này có thể tiến hành thủ công hoặc bằng máy bán tự động, tự động và hiện đang được sử dụng rộng rãi ở nhiều bệnh viện.
Kết quả của PT thường được thể hiện ở các dạng:
Thời gian: giá trị bình thường khoảng 11-13 giây, kéo dài khi PT bệnh dài hơn PT chứng 3 giây.
%: giá trị bình thường khoảng 70-140%, giảm khi <70%.
INR: được sử dụng cho những bệnh nhân điều trị kháng vitamin K.
Các xét nghiệm đánh giá đường đông máu nội sinh
Bao gồm khá nhiều các xét nghiệm: thời gian Howell, APTT, định lượng các yếu tố đông máu VIII, IX, XI, XII, vonWillebrand…
Hiện nay trên thế giới cũng như ở Việt Nam, xét nghiệm APTT (Activated Partial Thromboplastin Time: thời gian thromboplastin một phần hoạt hóa) hay còn gọi là TCK được khuyến cáo sử dụng bởi độ nhạy cao cũng như tính khả thi tại hầu hết các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện khu vực. Kết quả của APTT thường được thể hiện ở các dạng:
Thời gian: bình thường 25-33 giây.
Chỉ số (Ratio) APTT bệnh /APTTchứng: bình thường 0,85- 1,25; APTT kéo dài khi chỉ số này >1,25.
Xét nghiệm đánh giá đường đông máu chung
TT (Thrombin Time: thời gian thrombin):
Kết quả của TT thường được thể hiện ở các dạng:
Thời gian: bình thường 12- 15 giây.
Chỉ số (Ratio) TT bệnh /TTchứng: bình thường: 0,80- 1,25; TT kéo dài khi chỉ số này >1,25.
Định lượng fibrinogen (phương pháp Clauss).
Nồng độ fibrinogen bình thường: 2-4 g/l.
Các xét nghiệm đánh giá tình trạng tiêu sợi huyết
Những xét nghiệm của nhóm này rất có giá trị trong phát hiện, chẩn đoán cũng như theo dõi những rối loạn đông máu cấp tính có tỷ lệ tử vong cao như DIC (đông máu rải rác trong lòng mạch), tiêu sợi huyết tiên phát, huyết khối…Nhưng thực tế hiện nay, vẫn còn nhiều bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện khu vực chưa triển khai nhóm xét nghiệm này. Tại một số bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện khu vực, để phát hiện một tình trạng chảy máu do tăng hoạt hóa tiêu sợi huyết thường sử dụng các xét nghiệm: tan cục máu đông, nghiệm pháp Von – Kaulla, định lượng D-Dimer.
Bình thường, máu sau khi được lấy vào ống nghiệm (không có chất chống đông) sẽ đông lại và xảy ra hiện tượng co cục máu. Sau khi co, cục máu bị tan hoàn toàn sau 12 giờ. Trong những trường hợp tiêu sợi huyết cấp, cục máu sẽ tan nhanh sau khi đông, thậm chí không thể đông được trong những trường hợp tiêu sợi huyết tối cấp. Đây là xét nghiệm đơn giản, dễ thực hiện ở các bệnh viện tuyến khu vực, tuyến tỉnh; Tuy nhiên độ nhạy của xét nghiệm này không cao, thời gian theo dõi kéo dài, không đáp ứng kịp thời trong những trường hợp cấp tính.
Nghiệm pháp Von – Kaulla (thời gian tiêu Euglobulin): được sử dụng để phát hiện tình trạng tăng tiêu sợi huyết ở bệnh nhân. Xét nghiệm này có khả năng áp dụng rộng rãi ở các bệnh viện nhưng độ nhạy không cao.
Định lượng D- Dimer: là xét nghiệm đánh giá nồng độ các sản phẩm thoái giáng của fibrin, được khuyến cáo sử dụng trong đánh giá tình trạng tiêu sợi huyết bởi độ nhạy cao của xét nghiệm này; Tăng D- Dimer là một trong những tiêu chuẩn để chẩn đoán DIC. D- Dimer cũng tăng trong tiêu sợi huyết tiên phát, huyết khối…
Như vậy, ý nghĩa xét nghiệm TCK là để đánh giá đường đông máu ngoại sinh và nội sinh tương ứng, phát hiện bất thường gây rối loạn đông máu. Ngoài những xét nghiệm này, bệnh nhân bị rối loạn đông máu có thể phải thực hiện nhiều xét nghiệm khác để tìm ra chính xác nguyên nhân và từ đó điều trị hiệu quả.